Chuyển tới nội dung
Trang chủ » Blog » Chương 1. Ông Vua Biến Hình Của Tự Nhiên — HÀNH TRÌNH BĂNG QUA THẾ GIỚI CỦA LOÀI GÀ: CÂU CHUYỆN HÀO HÙNG VỀ MỘT LOÀI CHIM ĐÃ GÓP PHẦN XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH — Andrew Lawler (2014)

Chương 1. Ông Vua Biến Hình Của Tự Nhiên — HÀNH TRÌNH BĂNG QUA THẾ GIỚI CỦA LOÀI GÀ: CÂU CHUYỆN HÀO HÙNG VỀ MỘT LOÀI CHIM ĐÃ GÓP PHẦN XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH — Andrew Lawler (2014)

Tác phẩm được dịch ra tiếng Việt bởi Quyên Trứng Gà vào những ngày nắng nóng bể-đầu trung tuần tháng 4, năm 2024

Có lẽ chỉ người Eskimo là nhánh duy nhất trong đại gia đình loài người không thể tận dụng được loài vật này.

Probably the Eskimo is the only branch of the human family which has been unable to profit from this domestic creature.

—William Beebe, “Chuyên Khảo về các loài Gà Lôi”, (A Monograph of the Pheasants)

Vào một buổi bình minh lạnh lẽo tại khu rừng ẩm ướt phía bắc Miến Điện vào năm 1911, nhà sinh vật học 34 tuổi William Beebe cẩn thận ẩn mình trong bụi cây ướt đẫm khi tiếng gà trống trong làng vang lên từ xa. Ở một bãi đất trống ngay cạnh, một nhóm người và lừa mang theo gạo và đạn dược chuẩn bị lên đường đến biên giới gần đó với Trung Quốc, nơi đang rối ren vì nạn đói và cuộc cách mạng. Khi đoàn người và lừa bắt đầu cuộc hành trình dưới ánh bình minh và tiếng leng keng của chuông từ từ vụt tắt, lợn rừng, kền kền, bồ câu, và gà địa phương bắt đầu lục lọi tìm thức ăn sót lại.

Chỉ vài phút sau, một con chim rực rỡ với thân hình thon gọn và cặp cựa dài màu đen bước vào bãi. Qua ống nhòm, Beebe theo dõi không chớp mắt khi ánh mặt trời lên cao xuyên qua tán cây và chiếu vào bộ lông của con chim. Anh viết: “Chỉ trong phút chốc, nó lóng lánh dưới ánh nắng mặt trời phản chiếu màu đỏ, xanh lá, và tím từ bộ lông của nó.” Đám gà mái và gà trống dừng lại, quan sát vị khách mới với vẻ trang nghiêm. “Chúng coi nó như một điều gì đó xa lạ, có lẽ là cao cấp hơn, chắc chắn đáng được tôn trọng, vì chúng không dám làm phiền nó,” Beebe ghi lại. Con chim hoang dường như không quan tâm đến những con vật khác, chỉ dừng lại để nhặt một miếng ăn và liếc nhìn con gà mái trong làng, trước khi biến mất vào rừng với bước đi oai vệ.

Beebe tiếp tục theo dõi, lặng lẽ trượt người qua mặt đất ẩm ướt. Tại đáy một hốc nước, anh nhìn thấy một con gà rừng đực đang cùng bạn tình, chúng vui vẻ gáy và cào đất tìm kiếm giun. Anh chứng kiến gà rừng không bỏ qua bất kỳ chi tiết nhỏ nào xung quanh, từ lá cây đến nhánh cây rơi, và anh thấy thú vị khi quan sát nó liên tục quét mắt quanh bầu trời và khu rừng. Con chim này luôn cảnh giác, có vẻ như sở hữu một khả năng nhận thức siêu nhiên. Tiếng mèo kêu từ xa làm cả hai đều chú ý; sau đó một con sóc chuyển động gần đó khiến cả đôi nhanh chóng phóng vào rừng dày đặc.

Trải nghiệm này để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm trí Beebe, người sau này trở thành một trong những nhà khoa học nổi tiếng đầu tiên của Mỹ. Con chim, một loài gà rừng đỏ, có dáng điệu tựa như “một con báo không thể thuần hóa; đuôi lủng lẳng thấp, chân cong nhẹ; đầu cúi, luôn tập trung, lắng nghe, quan sát; hiếm khi đứng yên.” Beebe, nhà điểu học mạo hiểm đã từng du lịch từ Mexico đến Malaysia, cảm thấy kinh ngạc trước sinh vật kỳ lạ này, tổ tiên của loài gà hiện đại. Ông viết: “Một khi đã thấy gà rừng thực sự trong rừng sâu, bạn sẽ không bao giờ quên nó được.”

Nếu gà là loài vật quen thuộc đến mức gần như bị lãng quên trong cuộc sống hàng ngày, thì tổ tiên hoang dã của chúng, gà rừng đỏ, lại ẩn chứa nhiều điều bí ẩn đáng ngạc nhiên. Chỉ có một số ít nhà sinh vật học đã có cơ hội quan sát loài gà rừng đỏ trong môi trường sống tự nhiên của nó ở Nam Á, và phần lớn những hiểu biết của chúng ta về loài này đều dựa trên các nghiên cứu được thực hiện trong các vườn thú, trên những cá thể có vẻ ngoài giống loài chim mà Beebe đã quan sát nhưng lại có hành vi giống như những con gà đã được thuần hóa. Vì gà và gà rừng đỏ thuộc cùng một loài—cả hai đều mang tên khoa học là Gallus gallus—chúng có khả năng giao phối với nhau. Số lượng gà có thể giao phối với những con gà cùng loài và tổ tiên của chúng đã tăng vọt theo sự gia tăng dân số từ Ấn Độ đến Việt Nam trong những thập kỷ qua, làm loãng nguồn gen hoang dã. Những quan sát của Beebe đã mang lại cho chúng ta cái nhìn quý giá về con chim hoang dã, nguồn gốc của loài gà hiện đại.

Việc gà hoang từng là sinh vật tự do mà giờ đây lại trở thành biểu tượng của sự thuần hóa là điều khiến giới sinh vật học phải đau đầu suy nghĩ. Edmund Saul Dixon, một mục sư người Anh, người đã truyền cảm hứng nghiên cứu về gà cho Darwin, đã từng bày tỏ vào năm 1848 rằng, những loài được coi là tổ tiên gần nhất của gà nhà, lại không hề dễ thuần hóa hơn Gà gô (Partridge – hay Chim đa đa) hoặc Trĩ vàng (Golden pheasant – hay Gà lôi vàng).

Gà, như tất cả các loài động vật đã được thuần hóa, ban đầu là sinh vật hoang dã và từ từ bị cuốn vào cuộc sống con người. Sói đã trở thành chó nhờ vào việc tìm kiếm thức ăn thừa mà con người cung cấp đổi lấy sự bảo vệ. Mèo rừng săn chuột ở các kho thóc ở Trung Đông cổ đại, do đó mèo và người dần hợp tác với nhau. Lợn, cừu, dê và bò lúc đầu là con mồi và dần được thuần hóa thành đàn gia súc. Câu chuyện về gà còn bí ẩn hơn. Liệu chúng ta có tới gần gà, hay chính gà đã tìm đến con người, hoặc có thể theo thời gian, chúng ta và gà đã dần quen với sự hiện diện của nhau?

Thuật ngữ “thuần hóa” (domestication) bắt nguồn từ từ Latin, có nghĩa là “thuộc về ngôi nhà”, và nó gợi lên hình ảnh một con vật được thuần hóa phục vụ con người như một người hầu hay nô lệ, đổi lại được cung cấp nơi ở, thức ăn và sự bảo vệ. Tuy nhiên, các nhà sinh học hiện đại nhận thấy thuần hóa là một quá trình kéo dài và có tính tương hỗ, trong đó mối quan hệ giữa con người và động vật không thể tách rời hoàn toàn. Điển hình như lợn hoang, chó dingo ở Úc và ngựa Mustang ở miền Tây nước Mỹ, mặc dù sống hoang nhưng vẫn giữ nhiều đặc điểm di truyền từ thời kỳ sống chung với con người.

Trong số hàng chục nghìn loài, chỉ có một số ít động vật thực sự gắn bó được với con người. Trong số 25.000 loài cá, chỉ có cá vàng và cá chép được coi là đã thuần hóa. Tương tự, chỉ có vài chục loài trong số hơn năm nghìn loài động vật có vú được thuần hóa, và chỉ khoảng mười loài trong số gần mười nghìn loài chim có thể sống trong nhà hoặc chuồng trại của chúng ta. Các loài như voi, báo gêpa, và ngựa vằn có thể được huấn luyện để thực hiện các công việc nhất định nhưng chúng chỉ được thuần hóa tạm thời, không bao giờ thực sự trở thành thành viên của gia đình con người. Mỗi thế hệ của những loài này lại cần được thuần hóa lại từ đầu.

Gà rừng đỏ, loài không tin tưởng con người và không thích hợp để sống trong điều kiện nuôi nhốt, thực sự là một ứng viên bất ngờ để trở thành đối tác động vật quan trọng nhất của chúng ta. Việc nghiên cứu kỹ lưỡng của Beebe đối với loài chim này trong môi trường sống tự nhiên của nó là bước đầu tiên để hiểu rõ hơn về hành trình của gà, từ rừng sâu đến khắp các đại dương và lục địa.

Chuyến thăm Miến Điện của ông Beebe vào đêm trước Thế chiến thứ nhất không liên quan đến lịch sử loài gà. Đây là một phần của nhiệm vụ khẩn cấp do các nhà bảo tồn thực hiện nhằm nghiên cứu và ghi chép các loài gà lôi đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng do ảnh hưởng của ngành thời trang và ngành sản xuất lốp xe. Hàng trăm nghìn mẫu rừng, môi trường sống lý tưởng của gà lôi, đã bị phá trên khắp Nam Á để nhường chỗ cho các đồn điền cao su phục vụ ngành công nghiệp xe đạp và ô tô đang nở rộ. Đồng thời, lông của các loài chim nhiệt đới là mốt thời trang ưa chuộng của hàng trăm nghìn người Mỹ và người châu Âu, dẫn đến việc hàng loạt các loài chim như diệc bạch, chim chích, nhạn biển và diệc ở Hoa Kỳ bị giết hại. Một phong trào phản đối nhỏ bắt đầu từ Boston khi hai bà quý tộc gặp nhau uống trà và sáng lập Hiệp hội Audubon Quốc gia (National Audubon Society), đã phát triển thành một lực lượng chính trị mạnh mẽ, buộc Quốc hội cấm bán lông chim bản địa.

Ngành công nghiệp mũ lớn lập tức chuyển hướng sang các khu rừng ở Nam Á, nơi sinh sống của gần như tất cả 49 loài gà lôi trên thế giới, trong đó có gà rừng đỏ. Họ nhà gà lôi này sở hữu bộ lông lộng lẫy và rực rỡ không thể so sánh với các loài chim khác. Những người yêu chim lo ngại rằng toàn bộ loài gà lôi có thể biến mất trước khi chúng kịp được ghi vào danh mục. Henry Fairfield Osborn, chủ tịch Hiệp hội Động vật học New York (New York Zoological Society), cảnh báo: “Những thành viên của nhóm này, đẹp và đáng chú ý nhất, đang dần dần bị tuyệt chủng. Hồ sơ về sinh hoạt và môi trường sống của chúng, quan trọng để hiểu về cấu trúc và quá trình tiến hóa của chúng, sắp mãi mãi thất lạc.” Osborn và các nhà bảo tồn ở New York đã tìm đến Beebe, người được mệnh danh là thiên tài của ngành điểu học, để giải quyết vấn đề này.

Beebe đã từ bỏ việc học tại Đại học Columbia để làm việc tại Công viên Động vật học New York (New York Zoological Park) ở Bronx ngay khi nó mới mở. Anh chỉ mới 22 tuổi khi thiết kế một chiếc lồng bay mang tính cách mạng, với không gian mở rộng lớn, cho phép chim bay lượn tự do. Chiếc lồng này nhanh chóng trở thành điểm nhấn nổi bật của thành phố New York kể từ khi khánh thành năm 1900. Với thân hình cao gầy và bộ ria mép điển trai, Beebe đã khéo léo kết hợp khoa học với những chuyến phiêu lưu, giới thượng lưu và giải trí. Ông kết bạn với Theodore Roosevelt (Tổng thống thứ 26 của Hoa Kỳ), yêu thích các buổi tiệc hóa trang, tham gia các nhiệm vụ không quân trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, xuất hiện trong các phim tài liệu và từng lặn xuống đáy đại dương 3000 feet trong một thiết bị lặn hình cầu. Beebe từng nói với một người bạn rằng, “Sự nhàm chán là điều phi đạo đức. Điều duy nhất một người đàn ông cần làm là quan sát.”

Năm 1902, Beebe đã kết hôn với Mary Blair Rice, một phụ nữ giàu có và tài năng người Virginia, là một nhà quan sát chim và cũng là một tiểu thuyết gia. Với sự khuyến khích của Osborn và sự hỗ trợ tài chính từ một nhà công nghiệp ở New Jersey, họ đã lên đường từ Cảng New York trên con tàu Lusitania. Con tàu này sau đó đã bị chìm bởi tàu ngầm Đức sáu năm sau, một sự kiện đã thúc đẩy Hoa Kỳ tham gia vào cuộc chiến chống lại Đức. Trong suốt 17 tháng, họ đã đi qua vành đai phía nam của châu Á, tránh dịch hạch, chạy trốn khỏi một cuộc bạo loạn ở Trung Quốc và đối mặt với những cơn trầm cảm thường xuyên của Beebe. Cuộc hôn nhân của họ không thể vượt qua những khó khăn của chuyến đi. Khi trở về, Rice đã đến Reno và nộp đơn ly hôn, cáo buộc chồng mình có hành vi tàn nhẫn. Sau đó, Beebe tiếp tục xuất bản bốn tập “Một Chuyên Khảo về các Loài Gà Lôi” (A Monograph of the Pheasants).

Cặp đôi này đã nhận ra rằng việc giết mổ quy mô lớn đang thực sự đe dọa nhiều loài động vật. Nguyên nhân chính là từ các trang trại cao su, nhu cầu lông vũ trên thị trường, và thói quen ăn uống giàu protein của người Trung Quốc. Beebe, với vẻ nản lòng, đã miêu tả: “Chúng [gà] bị bẫy, bị thương bởi mũi tên độc từ ống thổi hoặc nỏ, hoặc bị bắn bằng súng săn liên tiếp.” Tại thủ đô Rangoon của Miến Điện, ông đã chứng kiến những bó lớn lông gà trĩ bạc chất đống tại sở hải quan và phàn nàn về việc Nepal và Trung Quốc vẫn xuất khẩu chúng sang phương Tây, mặc dù có luật mới cấm nhập khẩu. Thêm vào đó, sự bành trướng nhanh chóng của các đồn điền cao su đã làm giảm sút trầm trọng môi trường sống của những loài chim còn lại.

Beebe đặc biệt ấn tượng với gà rừng đỏ (red jungle fowl), mà ông gọi là “loài chim hoang dã quan trọng nhất trên Trái Đất” vì nó là nguồn gốc của tất cả các giống gà trên thế giới. Ông đã ngạc nhiên khi thấy một con gà rừng lao ra từ bụi rậm và đậu an toàn trên một nhánh cây cao, trong khi một con khác bay qua một thung lũng rộng nửa dặm (~1.6 km). “Không hề thấy dấu hiệu của những cơ bắp yếu ớt như những con vật nuôi trong chuồng,” ông nói với thái độ khinh miệt của một nhà sinh vật học đối với động vật nuôi. Tuy nhiên, phần lớn thời gian, gà rừng đỏ vẫn sống trên mặt đất, tìm kiếm thức ăn vào buổi sáng sớm và tối muộn, và nghỉ ngơi trong bóng mát khi trời nóng. Nhịp điệu đó đồng bộ với nhiều xã hội nông nghiệp sơ khai ở vùng nhiệt đới.

Thông tin về chế độ ăn của loài chim này còn khá mơ hồ, vì vậy Beebe đã dành nhiều thời gian nghiên cứu cuống – một phần của hệ tiêu hóa ở gần cổ họng, nơi tạm thời lưu trữ thức ăn, và kiểm tra ruột của chúng. Ông phát hiện chủ yếu là các phần còn lại của thực vật và côn trùng. Mặc dù là loài ăn tạp, chim này ưa thích các loại cỏ như măng tre và côn trùng sống hơn là ngũ cốc, thảo mộc hoặc xác thối. Điều này đã giúp chúng trở thành bạn đồng hành với những nông dân đầu tiên.

Beebe cũng chú ý đến tính cách ít di chuyển và tính xã hội của gà rừng đỏ, những đặc điểm này cũng hấp dẫn người xưa. Những con chim này hiếm khi rời khỏi lãnh thổ của mình và các gà mẹ chăm sóc con non gần ba tháng trước khi chúng tách ra và lập nhóm riêng. “Hiếm khi tôi thấy hoặc nghe nói về một con gà trống hay gà mái đơn độc,” Beebe ghi nhận. Không giống như các loài chim trĩ khác, gà rừng thích tụ tập ngủ cùng nhau vào ban đêm. Chỗ ngủ ưa thích thường là một nhánh tre cong thấp. Mặc dù vị trí này có vẻ không lý tưởng vì nó thấp hơn so với cành cây và dễ bị gió đung đưa, nhưng ít có kẻ săn mồi nào có thể trèo lên những thân cây trơn trượt đó. Một cây đơn độc là một trong những nơi ngủ được ưa chuộng khác, ít dễ bị tấn công vào ban đêm. Trong khi hầu hết các loài chim không thoải mái khi bị giam cầm vào ban đêm, thì thói quen ngủ và tính dễ bị tổn thương của gà rừng đỏ lại phù hợp với cuộc sống trong chuồng gà.

Cuối cùng, những kẻ săn mồi của loài chim này rất đa dạng. Chồn và chó sói thích thú với vị của gà rừng, cũng như diều hâu và đại bàng, trong khi thằn lằn và rắn thường săn lùng trứng của chúng. Tuy nhiên, loài này không phải là loài sản xuất trứng nhiều như những con gà đã được thuần hóa. Mỗi con gà mái chỉ đẻ trung bình sáu quả một năm, và tổ đều được giấu kín trên mặt đất, số lượng ít hơn nhiều so với các loài chim trĩ khác. Cũng không phải con chim này to lớn và nhiều thịt hơn các loài cùng họ. Lượng thịt và trứng dồi dào mà chúng ta thấy ở gà ngày nay hoàn toàn là kết quả của sự can thiệp con người qua hàng ngàn năm và không phải là đặc điểm của tổ tiên của chúng. Nhưng khả năng phát hiện nguy hiểm và kêu cảnh báo của gà rừng đỏ đực có thể đã trở thành hệ thống báo động tiện lợi cho các khu định cư người xưa.

Có ba loài gà rừng khác—gà rừng xám, gà rừng xanh và gà rừng Sri Lanka—và Beebe cũng đã quan sát kỹ lưỡng chúng. Tất cả đều có những đặc điểm tương tự, nhưng sống trong phạm vi địa lý hạn chế hơn so với gà rừng đỏ, loài này sinh sống từ những sườn núi cao 5000 feet (~1.524 m) ở chân núi Himalaya lạnh giá tại Kashmir đến những đầm lầy nhiệt đới ở Sumatra. Từ Pakistan đến Myanmar và tới bờ biển Thái Bình Dương của Việt Nam, gà rừng đỏ thích nghi với nhiều môi trường sống khác nhau một cách đáng kể và đã phát triển thành nhiều dòng riêng biệt, tùy theo khí hậu của từng khu vực. Khả năng thích nghi với đa dạng khí hậu và nguồn thức ăn đã khiến gà rừng đỏ trở thành loài có tiềm năng lớn trong hành trình chinh phục hầu như mọi môi trường trên Trái Đất.

William Beebe, trong nghiên cứu của mình, đã kết luận rằng gà rừng đỏ được cấu thành từ một loại “đất sét sinh học” kỳ bí và độc đáo, giúp nó nổi bật so với các loài chim khác. Ông mô tả đây là những khả năng tiềm ẩn về mặt thể chất lẫn tinh thần chưa được khai thác. Được viết vào thời điểm bình minh của ngành di truyền học, cùng năm đó, Thomas Hunt Morgan tại Đại học Columbia – nơi Beebe từng theo học – đã công bố một loạt bài báo quan trọng trên tạp chí Khoa học. Các nghiên cứu này về ruồi giấm đã chứng minh rằng nhiễm sắc thể chứa các đặc điểm di truyền cụ thể, mở đầu cho cuộc cách mạng di truyền học hiện đại mà Charles Darwin đã đặt nền móng trước đó một thế hệ.

Beebe cho rằng, tính mềm dẻo đặc biệt của gà rừng đã cho phép con người tạo ra những giống gà nhà đẹp đẽ, kỳ lạ hoặc thậm chí là quái dị. Lông của chúng có thể được điều chỉnh dài hoặc ngắn, màu sắc và hoa văn thay đổi nhanh chóng, và kích thước của các chi cũng có thể được điều chỉnh. Trong khi gà rừng hoang dã có đuôi dài dưới 12 inch (~30.4 cm) thì một giống gà Nhật Bản có đuôi dài tới 20 feet (~6 m). Chỉ riêng chiếc mào của gà trống đã thuần hóa có thể có hơn hai chục hình dạng khác nhau. Các con đực có thể được biến đổi để trở thành chiến binh dũng mãnh với ít lông hơn, giảm khả năng bị đối thủ nắm bắt. Từ gà rừng đỏ nặng hai pound (~9 lạng), người ta đã tạo ra gà bantam nặng hai mươi ounce (~0.56 kg) và gà Brahma nặng mười pound (~4.5 kg), trong khi gà mái Leghorn trắng có thể đẻ một quả trứng mỗi ngày.

Gà rừng đỏ, theo một nghĩa nào đó, có thể coi là “ông vua biến hình” của tự nhiên (Nature’s Mr. Potato Head). Những thói quen hàng ngày, chế độ ăn, khả năng thích nghi cũng như tính cách ít vận động và hướng ngoại của nó đã tạo thành sự phù hợp hoàn hảo với con người. Vào năm 2004, một tập thể các nhà khoa học quốc tế thuộc Hiệp hội Nghiên cứu Bản đồ Di truyền Gà Quốc tế (International Chicken Polymorphism Map Consortium) đã phân tích và công bố bản đồ gen của gà, là bản đồ gen đầu tiên của một loài vật nuôi trong trang trại, khẳng định giá trị kinh tế quan trọng của loài này. Các nhà nghiên cứu đã xác định được rằng phần lớn trong số 2,8 triệu biến thể đơn nucleotide—những phân đoạn được chọn lọc từ bộ gen, mỗi phân đoạn chỉ ra sự khác biệt tại một đơn vị cấu trúc DNA—có nguồn gốc trước khi thuần hóa. Có nghĩa là, gà hiện đại vẫn chủ yếu giữ gen của gà rừng đỏ; mặc dù kết luận này dựa trên giả định rằng các gen của gà rừng đỏ nghiên cứu thực sự thuộc về loài chim hoang dã nguyên thủy.

Những phát hiện này đã mở ra cách thức thực tiễn cho các công ty chăn nuôi để tạo ra những giống gà lớn hơn, nhiều thịt hơn thông qua phương pháp lai giống nhằm nâng cao các đặc điểm di truyền cụ thể, tuy nhiên, chúng lại chỉ cung cấp một ít thông tin về những thay đổi đã biến loài vật hoang dã này thành một thành viên không thể thiếu trong chuồng trại. Nghiên cứu sau này đã chỉ ra rằng, một đột biến thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh có thể đã đưa gà rừng đỏ vào con đường thuần hóa từ hàng nghìn năm trước, nhưng có rất ít bằng chứng rằng con người đã chọn giống loài này, ít nhất là ban đầu, chủ yếu để lấy thịt. Điều mà các nhà khoa học cần là một giống gà rừng đỏ thuần chủng đáng tin cậy để làm rõ những khác biệt tinh tế giữa một con hoang dã và một con đã được thuần hóa.

Điều này không hề đơn giản như chúng ta nghĩ. Đến Thế chiến thứ nhất, xu hướng sử dụng lông chim lạ trên mũ đã trở nên lỗi thời và cơn sốt cao su cũng đã tan vỡ. Điều này đã cho phép gà lôi và các loài gà rừng ở Nam Á có cơ hội phục hồi. Tuy nhiên, trong chuyến thám hiểm, Beebe vô tình chú ý đến việc một số con gà rừng đỏ đực không có bộ lông nhật thực (eclipse plumage), tức là một tập hợp lông màu tím xuất hiện khi con trống rụng lông cổ màu đỏ-vàng và lông đuôi chính vào cuối mùa hè. Vào mùa thu, loài chim này thay lông hoàn toàn và mọc lên một bộ lông mới. Gà nuôi bỏ qua giai đoạn lông nhật thực này, do đó Beebe coi đây là bằng chứng của việc “sự pha trộn máu của các loài chim làng bản địa” vào bộ gen hoang dã.

Gần một thế kỷ sau, một nhà sinh vật học khác mới nhận ra rằng tổ tiên của loài chim phổ biến nhất thế giới và loài vật nuôi quan trọng nhất của con người đang dần biến mất, trở thành nạn nhân của chính sự thành công tiến hóa của nó khi những đàn gà đang mở rộng ở châu Á đe dọa sự toàn vẹn di truyền của loài chim hoang. Sự biến mất của nó có thể xóa sổ những bước đầu tiên trong hành trình của loài gà mãi mãi. Tuy nhiên, nhờ vào một chương trình ít được biết đến của chính phủ Mỹ, nhằm giảm bớt tiếng ồn của các thợ săn miền Nam, gà rừng đỏ có thể vẫn còn cơ hội để kể lại câu chuyện của mình.

Việc nhập khẩu động vật hoang dã từ những vùng đất xa lạ và kỳ thú đã là một phần của lịch sử nhân loại từ thời cổ đại. Các vua chúa ở Cận Đông cổ đã từng tự hào về những vườn thú của họ với sư tử và công, một vị caliph ở Baghdad đã tặng Charlemagne một con voi, và một hoàng đế Trung Quốc thế kỷ 15 đã trưng bày hươu cao cổ của mình trước mặt các nhà ngoại giao ngạc nhiên. Tuy nhiên, do hầu hết các loài không thể thích nghi một cách dễ dàng như gà hay con người với môi trường, chế độ ăn, hoặc địa lý mới, phần lớn các động vật này thường chết sớm sau khi được đưa đến.

Một trong những ví dụ thành công về việc nhập khẩu chim hoang dã vào Hoa Kỳ là loài gà lôi cổ tròn (ring-necked pheasant) của Trung Quốc, được mang từ Phương Đông đến và phát triển mạnh ở Trung Tây và dãy núi Rocky vào những năm 1880, dù chúng từ chối sinh sống phía nam Đường Mason-Dixon. Tuy nhiên, nhiều loài ngoại lai khác phát triển mạnh đã gây ra hậu quả tai hại, như chim sáo châu Âu và chim sẻ Anh, chúng không những ăn hại cây trồng mà còn quấy rối các loài chim bản địa và thậm chí là nguy hiểm cho máy bay. Đầu thế kỷ 20, cùng thời điểm Quốc hội Hoa Kỳ bắt đầu bảo vệ các loài bản địa khỏi thời trang mũ, lệnh cấm nhập khẩu các loài có thể gây hại cũng được áp dụng.

Trong thời kỳ Đại khủng hoảng, các loài động vật hoang dã bản địa từ hươu đến vịt đều nhanh chóng suy giảm, khiến giới bảo tồn, thợ săn, và ngành công nghiệp vũ khí và đạn dược cảm thấy lo ngại. Năm 1937, Tổng thống Franklin Roosevelt đã ký một đạo luật lưỡng đảng, lần đầu tiên cung cấp tài trợ thường xuyên cho nghiên cứu động vật hoang dã, nhằm hiểu và giải quyết vấn đề này. Thế chiến thứ hai đã ngăn cản công việc này, và một thập kỷ sau, khi hàng triệu cựu chiến binh trở về rừng với súng trường mạnh mẽ, tình hình càng trở nên tồi tệ. Các mùa săn bắn trên toàn quốc bị hạn chế nghiêm ngặt và toàn bộ lộ trình bay qua sông Mississippi bị cấm. “Các quan chức quản lý động vật hoang dã Mỹ hiện đang đối mặt với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất trong lịch sử dài và đầy màu sắc của việc bảo tồn động vật hoang dã trên lục địa này,” người đứng đầu Hiệp hội Quốc tế các Ủy viên Trò chơi, Cá và Bảo tồn (International Association of Game, Fish and Conservation Commissioners)  cảnh báo tại một phòng khiêu vũ ở Thành phố Atlantic vào năm 1948.

Giám đốc bộ phận bảo tồn động vật hoang dã tại New York, Tiến sĩ Gardiner Bump, người mới nhận bằng tiến sĩ và tự tin vào năng lực của mình, đã đề xuất một giải pháp táo bạo. Với thân hình cao lớn, nặng trên 200 pound (~90 kg), Bump cho rằng việc nhập khẩu các loài chim săn từ châu Âu và châu Á vào Bắc Mỹ, nếu được tiến hành một cách khoa học, có thể thay thế cho các loài bản địa đang dần kiệt quệ. Giám đốc Cục Cá và Động vật Hoang dã Hoa Kỳ (U.S. Fish and Wildlife Service), người đứng đầu một tổ chức được thành lập chủ yếu để đối phó với những loài xâm lấn, đã tỏ ra dè dặt trước việc giới thiệu một loài có thể trở thành hại. Trong cơn khủng hoảng sắp xảy ra, ông đã miễn cưỡng đồng ý với kế hoạch này.

Bump và vợ mình, Janet, đã bỏ ra hai thập kỷ để tìm kiếm những ứng viên tốt nhất, từ Scandinavia (Bắc Âu) đến Trung Đông. Tuy nhiên, không có loài chim nào trong số hàng chục loài họ đã đưa về Hoa Kỳ có thể thích nghi và sinh sôi tự nhiên. Trong khi đó, áp lực từ các nhà lập pháp miền Nam đang ngày càng tăng, buộc Bump và đồng nghiệp tại Washington phải tìm ra một loài chim mới để thỏa mãn nhu cầu săn bắn của cử tri. Người miền Nam, vốn quen săn vịt và chim cút, đang rất mong muốn có thêm loài săn mới mạo hiểm hơn như gà lôi. Năm 1959, gia đình Bump đã thuê một ngôi nhà tại vùng ngoại ô sang trọng của New Delhi với sân sau rộng rãi để làm nơi nuôi chim, hy vọng tìm được loài chim phù hợp cho miền Nam.

Các chuyên gia Anh đã khuyên Bump nên tập trung vào gà rừng đỏ, một loài chim kín đáo, thông minh và nhanh nhẹn, thích khí hậu ấm áp, ẩm ướt và môi trường rừng rậm. Bump đã trấn an chính quyền Washington rằng ông đang theo dấu vết một loài có nhiều tiềm năng, nhưng các quan chức Ấn Độ đã từ chối yêu cầu của ông về việc tổ chức một đoàn thám hiểm chính thức đến khu vực chân núi Himalaya, nơi là môi trường sống lý tưởng của gà rừng đỏ. Vì vào thời điểm đó, Ấn Độ có mối quan hệ thân thiện với Liên Xô và lo ngại về sự hiện diện của người Mỹ gần biên giới nhạy cảm với Pakistan và Trung Quốc, Bump đã không nản lòng và tự mình đi săn. Khám phá những ngọn đồi và khu rừng ở miền Bắc Ấn Độ, nơi sông Hằng bắt nguồn từ dãy Himalaya, ông đã bị thu hút bởi thách thức mà loài gà này mang lại. Ông đã viết rằng chúng “gần như khó để bắn trúng khi đang bay như gà gô lông xù.” Ông quyết định sử dụng người dân địa phương để bắt chim và thu thập trứng của chúng.

Mối quan tâm hàng đầu của Bump là cần có những con chim hoang dã thực sự có thể sống sót trước những kẻ săn mồi ở miền Nam Mỹ. Nếu những con chim nhập khẩu có gen gà nhà, chúng sẽ thiếu đi tính nhút nhát và ranh mãnh mà Beebe đã quan sát ở loài gà rừng, và do đó không thể tồn tại đủ lâu để sinh sản. Để tránh vấn đề này, ông đã yêu cầu thu thập tất cả trứng và gà con của gà rừng đỏ cách làng gần nhất ít nhất ba dặm (~4.8 km). Sau này, ông khẳng định rằng hầu hết các mẫu vật đã được lấy cách khu dân cư gần nhất từ mười đến mười lăm dặm (~16-24 km), mặc dù việc xác minh điều này sau nửa thế kỷ là rất khó khăn.

Nhà sinh vật học này đã qua đời từ nhiều thập kỷ trước, nhưng Glen Christensen, người đã từng hợp tác với ông tại Ấn Độ khi còn là một nhà điểu học trẻ tuổi, vẫn còn sống và đã gần chạm ngưỡng tuổi 90. “Chờ chút nhé, tôi cần lấy bình oxy,” Glen nói khi tôi gọi anh ấy tại nhà riêng ở sa mạc Nevada. Sau một giây lặng, anh tiếp tục xác nhận rằng Bump đã hoàn toàn ý thức được vấn đề lai tạo. Glen cười khi tôi miêu tả hình ảnh một người đàn ông dũng cảm và năng động, lang thang trên những ngọn đồi hoang dã của Hindu Kush với súng và ba lô. “Ông ấy không thực sự tham gia vào việc đặt bẫy. Thật ra, ông ấy không phải là người thích đồng ruộng,” Glen nói thêm, tạm dừng để hít thở. “Ông ấy ngồi trong biệt thự ở Delhi như một quý tộc Anh già.”

Khó khăn hơn cả việc bắt chim là làm sao để chuyển chúng từ New Delhi đến New York, qua một hành trình dài 7300 dặm. Các chuyến bay từ Ấn Độ đến Hoa Kỳ yêu cầu nhiều lần chuyển máy bay và mất tới bốn ngày, một thách thức lớn trong logistics cho bất kỳ ai vận chuyển chim hoang. Vào năm 1959, Pan Am đã đưa vào sử dụng máy bay phản lực mới 707 của Boeing để rút ngắn thời gian này xuống còn một ngày rưỡi trên cùng một chiếc máy bay. Vợ chồng Bump đã tổ chức một bữa tiệc tối hoành tráng cho các đại lý hàng không ở Delhi, phục vụ cocktail trong sân sau bên cạnh những chuồng chim vững chắc, trong khi trình bày về nỗ lực của họ. Các đại lý của Pan Am, ấn tượng hoặc có thể là đã có chút men say, đã đồng ý hỗ trợ.

Đến tháng Năm năm 1960, vợ chồng Bumps đã thu thập được gà rừng đỏ và trứng của chúng từ tay những người đánh bẫy. Họ đã ấp những quả trứng này dưới bụng gà mái nhà và nuôi chúng trong những chuồng nhỏ tại sân sau, cho ăn thức ăn gia cầm từ cuộc triển lãm Mỹ tại Hội chợ Nông nghiệp Thế giới (World Agricultural Fair). Nhờ hãng hàng không Pan Am, bảy mươi con đã được chuyển tới bốn bang miền Nam qua New York. Sau đó, vào năm 1961, 45 con nữa được vận chuyển sang Hoa Kỳ. Trong khi đó, các quản lý săn bắn của các bang đã nuôi nhân giống những con gà này tại các trại ấp đặc biệt, với tổng số 10.000 con gà rừng đỏ được thả rải rác khắp miền Nam vào mùa thu năm 1963. Hai vợ chồng Bumps hy vọng rằng cuối cùng họ đã tìm ra được giải pháp cho khủng hoảng gà săn.

Tuy nhiên, những con chim thả vào hoang dã phía Nam dường như đã biến mất, trở thành nạn nhân của các động vật săn mồi, thời tiết, bệnh tật, hoặc sự kết hợp của các nguyên nhân chết chóc khác. Quay trở lại Hoa Kỳ, Bump đã đi qua các trại giống ở các bang, gây khó chịu cho các quản lý săn bắn với những yêu cầu ngày càng tuyệt vọng của mình. Những người chỉ trích của ông, luôn đông đảo trong lĩnh vực bảo tồn, đã phàn nàn rằng việc giới thiệu các loài ngoại lai là lãng phí thời gian và tiền bạc. Quần thể động vật hoang dã đã phục hồi vào những năm 1950 nhờ sự kết hợp của các hạn chế săn bắn và bảo vệ môi trường sống. Mối đe dọa mới nguy hiểm hơn, đặc biệt là đối với các loài chim hoang, chính là ô nhiễm. Rachel Carson, cựu nhân viên của Cơ quan Dịch vụ Cá và Động vật Hoang dã Hoa Kỳ (U.S. Fish and Wildlife Service) và được William Beebe hướng dẫn, đã xuất bản cuốn “Mùa Xuân Im Lặng” (Silent Spring) vào năm 1962. Cuốn sách này đã trở thành bán chạy nhất và thúc đẩy phong trào môi trường nhằm hiểu biết và ngăn chặn ô nhiễm hóa chất và sự phá hủy môi trường sống, gây ảnh hưởng đến các loài bản địa.

Vào đầu năm 1970, trong khi cả nước đang chào đón Ngày Trái Đất (Earth Day) lần đầu tiên và Tổng thống Richard Nixon chuẩn bị thành lập Cơ quan Bảo vệ Môi trường mới (The new Environmental Protection Agency), Bump đã gọi điện từ văn phòng của mình ở Washington tới một nhà sinh vật học trẻ tuổi ở Nam Carolina, người có niềm đam mê sâu sắc với gà rừng đỏ. Chương trình nuôi giống loài ngoại nhập này sắp bị ngưng lại, và số gà rừng còn lại được giữ để nhân giống tại các cơ sở thú săn của tiểu bang ở miền Nam sẽ sớm bị tiêu hủy. Bump cảnh báo đồng nghiệp trẻ của mình, I. Lehr Brisbin: “Họ sắp giết chết những con gà rừng, hãy cứu lấy những gì bạn có thể.”

Brisbin, nay đã ngoài bảy mươi, đang sống cùng vợ thứ ba của mình trong một khu ngoại ô sang trọng không xa trung tâm nghiên cứu vũ khí hạt nhân (nuclear weapons laboratory) nơi ông từng công tác suốt nửa thế kỷ. Ngôi nhà của ông nằm trên một con phố được trồng những ngôi nhà theo phong cách thuộc địa (faux Colonial houses), với những khoảng cỏ xanh được chăm chút tỉ mỉ. Lối vào nhà ông bắt đầu như bao ngôi nhà khác, rồi bất ngờ chuyển thành một con đường mòn không lát nhựa, dẫn xuống khu rừng rậm rạp. Đang khi tôi bấm chuông, một con rùa hộp đeo bộ phát sóng radio lững thững băng qua và Brisbin từ trong nhà gọi tôi vào.

Ông ta đang ngồi chân trần trên nền nhà gỗ ở tiền sảnh, bao quanh là chiếc ba lô màu xanh lá và các bản đồ. Phía sau, trên bàn hành lang, một con cáo nhồi bông đeo vòng cổ phát sóng đang nhìn thẳng vào tôi. “Nó vừa chết ư?” anh nói vào điện thoại. “Anh đã đông lạnh nó chưa?” Ngắt một chút. “Nếu con chim của anh chết rồi thì tôi không bận tâm, miễn là anh đông lạnh nó.” Sau đó, ông cúp máy, nắm lấy cây gậy gỗ tựa bên cửa và đứng dậy với thân hình nhỏ nhắn, gầy gò của mình. Brisbin đã đồng ý dẫn tôi đi xem những hậu duệ của những con gà rừng mà ông đã cứu khỏi bị tiêu hủy, những con chim này có thể là những con gà rừng đỏ hoang dã cuối cùng trên thế giới.

Nhiệm vụ đầu tiên của ông với tư cách là nhà sinh thái học vào cuối những năm 1960 là để kiểm tra xem loài gà có thể chịu được hành trình đến Sao Hỏa hay không. Để thực hiện điều này, ông đã đặt một con gà kêu to vào trong một cái hộp kim loại và hạ nó xuống một hố chì sâu có chứa nguồn phóng xạ mức thấp tại Cơ sở Sông Savannah (Savannah River Site) của chính phủ, nơi các kỹ sư hạt nhân sản xuất tritium và plutonium cho các vũ khí hủy diệt hàng loạt. Việc tiếp xúc lặp lại vài phút mỗi ngày đã mô phỏng môi trường ngoài không gian, ngoài tầng bảo vệ của bầu khí quyển Trái Đất. Chín mươi con gà mà ông nghiên cứu đã chứng tỏ sự bền bỉ đáng kể ngay cả sau một tháng tiếp xúc nhiều với bức xạ gamma. Không có con nào chết. Tốc độ phát triển chậm lại, nhưng bộ xương gần như không bị ảnh hưởng, ngoại trừ ngón chân giữa hơi ngắn lại.

Ông kết luận rằng gia cầm có khả năng sống sót qua chuyến đi liên hành tinh. Kết quả nghiên cứu của ông được công bố trong tháng mà Neil Armstrong và Buzz Aldrin đặt chân lên mặt trăng. Trên chuyến bay đến mặt trăng vào tháng 7 năm 1969, một con chim đã theo các phi hành gia, dù chỉ là trong dạng súp gà kem đông khô. Các nhà quản lý NASA đã ấp ủ giấc mơ gửi động vật sống lên sao Hỏa cùng các phi hành gia, tưởng tượng đến cảnh gà trống gáy trong bình minh sao Hỏa màu hồng khi những người tiên phong tự lập ra cứ điểm đầu tiên của loài người ngoài Trái Đất. Có thể chờ đợi chó và mèo, nhưng gà và trứng là thiết yếu cho cuộc phiêu lưu này. Công trình nghiên cứu của nhà sinh thái học này cho cơ quan vũ trụ là một phần của kế hoạch lớn đó, mặc dù kế hoạch chưa bao giờ được thực hiện.

Khi còn là sinh viên nghiên cứu sinh tại Đại học Georgia ở Athens, Brisbin đã nghiên cứu về tốc độ tăng trưởng của gà trong suốt vòng đời của chúng. Gà có thể sống một hoặc hai thập kỷ. Tuy nhiên, do những con gà nuôi lấy thịt hoặc trứng thường bị giết thịt khi còn non, các nhà nghiên cứu ít biết về giai đoạn giữa và cuối đời của chúng. Brisbin nhận thấy sẽ hữu ích khi so sánh chu kỳ đời của gà với tổ tiên hoang của chúng và ông từng mơ ước được đến Ấn Độ để quan sát gà rừng trong môi trường tự nhiên. Giống như NASA chưa từng đặt chân đến sao Hỏa, Brisbin cũng chưa bao giờ đến tiểu lục địa. Tuy nhiên, một năm sau khi công bố nghiên cứu về gà ngoài không gian, ông nhận được cuộc gọi đầy lo lắng của Bump.

Được thông báo về hoàn cảnh khó khăn của những con chim, Brisbin đã lái chiếc Ford station wagon của mình đi hai trăm dặm (~321 km) đến một trạm kiểm soát động vật hoang dã ở Georgia, nơi ông ta đã tải lên xe một trăm quả trứng gà rừng đỏ. Hai tháng sau, ông thông báo cho Bump rằng mình đang nuôi 35 con gà rừng đỏ non khỏe mạnh trong chuồng gà của mình, ngay bên dưới bóng của các cơ sở hạt nhân. Qua thời gian, ông nhận ra rằng chúng rất nhạy cảm và dễ hoảng sợ, nên ông đã hạn chế tiếp xúc giữa chúng và con người. Một năm sau, mặc dù đã có kinh nghiệm và cẩn thận, chỉ còn lại tám con. Hai đồng nghiệp từ Đại học Georgia đã cung cấp cho ông thêm 69 con gà rừng đỏ từ một trang trại kiểm soát động vật hoang dã ở Alabama, từ cùng nguồn gốc mà Bump đã mang từ Ấn Độ. Sự bổ sung này đã giúp ổn định đàn gà.

Năm 1972, Brisbin được điều chuyển sang công việc văn phòng ở Washington. Ông không thể đưa những con gà theo đến thủ đô, nhưng cũng không tìm được ai sẵn lòng chăm sóc những con chim tính tình khó chịu này. Gia đình Bumps đã về hưu tại trang trại ở phía bắc New York, các đồng nghiệp sinh thái học tại Savannah River coi thường sở thích của Brisbin, và các kỹ sư hạt nhân cảm thấy ngượng ngùng về sự hiện diện của những con gà công nghệ thấp trong khuôn viên hiện đại của họ. Sau đó, một cách bất ngờ, Isaac Richardson đã gọi cho ông. Richardson là một người độc thân, lập dị và giàu có, chủ sở hữu một lò mổ bò và lợn ở Tuscaloosa, Alabama. Ông ta bán thịt để kiếm lời nhưng lại nuôi các loài chim lạ cho niềm vui.

Khi nghe tin về tình cảnh khó khăn của ông Brisbin, ông Richardson đã đến sông Savannah vào tháng 6 năm đó, đưa về nhà một tá con chim và báo cáo rằng chúng đang phát triển tốt. Được động viên, ông Brisbin đã đặt những con chim còn lại vào một chiếc hộp nông, lót xốp để chúng không tự làm tổn thương mình và đưa chúng đến Alabama. Đó là mùa hè nóng bức ở miền Nam sâu và ông không có điều hòa, nên “Tôi đã khởi hành vào lúc hoàng hôn và lái xe suốt đêm,” ông nói. Sau khi thả gà vào lúc bình minh, ông quay xe về phía bắc đến Washington.

Richardson đã chứng tỏ mình là một chuyên gia trong nghệ thuật khó khăn của việc nuôi dưỡng và lai tạo gà rừng đỏ. Ba năm sau, ông đã mở rộng đàn lên tới 75 con. Trong ba thập kỷ tiếp theo, ông đã giữ cho chúng khỏe mạnh và cách ly với các loài gà khác để ngăn không làm loãng bộ gen của chúng. Ông đã cung cấp chim cho các nhà điểu học nghiệp dư khác, nhưng hầu hết chúng đều nhanh chóng chết do bệnh tật hoặc căng thẳng. Thậm chí Công viên Động vật học New York (New York Zoological Park) ở Bronx cũng thấy chúng quá khó để quản lý. Ông Richardson có một bí quyết đặc biệt, và thành tựu phi thường của ông đã được coi là huyền thoại trong số những người nhận thức được kỹ năng và lòng tận tâm cần thiết để nuôi dưỡng những con chim khó tính này.

Brisbin cuối cùng đã trở lại Nam Carolina và nghiên cứu về tốc độ mà gà có thể loại bỏ độc tố từ đất nhiễm phóng xạ tại Savannah River Site — và sau đó là gia cầm tiếp xúc với chất phóng xạ từ Chernobyl. Ông phát hiện ra rằng chúng có khả năng làm sạch chất độc một cách nhanh chóng. Ông cũng đã công bố các bài báo về ô nhiễm radiocesium ở rắn, vịt gỗ và lợn hoang, và đã dành nhiều năm nghiên cứu về cá sấu sống trong dòng nước nóng từ các nhà máy làm mát sông Savannah, điều này đã giúp ông xuất hiện trên chương trình truyền hình nổi tiếng Wild Kingdom của Marlin Perkins. Ông không nuôi gà rừng đỏ trong những thập kỷ đó, nhưng Brisbin cho biết ông luôn nhớ lời Bump đã nói trong cuộc gọi điện thoại năm 1970: “Một ngày nào đó,” nhà nghiên cứu điểu học ở New York đã cảnh báo, “chúng có thể là những con cuối cùng còn sót lại.”

Một phần tư thế kỷ sau, Brisbin chú ý đến một hội nghị chuyên đề về các loài chim nhiệt đới châu Á được lên kế hoạch cho cuộc họp của Hiệp hội Các Nhà Điểu học Mỹ (American Ornithologists’ Union) năm 1995 tại Cincinnati. “Tôi nghĩ, ồ, đây là cơ hội để nâng cao nhận thức về gà rừng đỏ,” ông nói. Tiêu đề bài báo của ông — “Liệu Gà rừng đỏ có phải là một trong những loài chim nguy cơ tuyệt chủng cao nhất ở Đông Nam Á không?” — được thiết kế để gây chú ý.

Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (The International Union for Conservation of Nature) đánh giá ba trong số bốn loài chim rừng trên thế giới đang có nguy cơ bị đe dọa. Trường hợp ngoại lệ là gà rừng đỏ, loài này có số lượng lớn hơn nhiều so với các loài anh em của nó ở Nam Á và chỉ thực sự hiếm gặp ở quốc gia đông đúc như Singapore. Brisbin không cho rằng gà rừng đỏ đang dần biến mất, mà là đàn gà hoang đang mất dần đặc tính di truyền nguyên thủy của chúng. Điều này gây ra cái chết của loài do sự pha trộn gen, chứ không phải do tuyệt chủng vật lý.

Vấn đề này không được các nhà bảo tồn quan tâm nhiều, vì họ thường tập trung vào nguy cơ tuyệt chủng vật lý hơn là sự pha trộn gen, đây là mối đe dọa chủ yếu đối với các loài động vật hoang dã nổi tiếng như cá voi xanh, hổ Siberi, và gấu Bắc Cực, cùng với hàng chục nghìn loài khác ít được yêu thích hơn. Vịt Muscovy hoang dã đang bị đe dọa bởi việc lai giống với vịt nhà, trong khi quần thể chó hoang trên thế giới ngày càng hòa trộn với các giống chó hoang và thuần hóa. Các loài thực vật cũng gặp phải thách thức tương tự; chẳng hạn, các giống lúa hoang đang dần tuyệt chủng ở khắp châu Á. Brisbin và một số nhà sinh thái học khác nhấn mạnh rằng gà, vịt và lúa là những thành phần quan trọng của nguồn thực phẩm của nhân loại và việc đảm bảo sự sống còn về mặt di truyền của tổ tiên hoang của chúng là một nỗ lực quan trọng và cần thiết.

Brisbin nói, “Tôi muốn xem có ai sẽ phản đối tôi không”. Chiến lược của ông đã thành công khi nhà sinh vật học Town Peterson từ Đại học Kansas lên tiếng trong phòng hội nghị, khẳng định rằng sự xâm nhập gen khó có thể gây ra tác động lớn đến loài chim hoang dã. Họ quyết định cộng tác để tìm ra sự thật. Vì cả hai đều không phải là nhà di truyền học và kỹ thuật giải trình tự gen còn non trẻ, họ cần một đặc điểm thể hiện rõ sự khác biệt vật lý giữa gà hoang và gà nhà. Họ chọn lông nhật thực, vì các nhà điểu học biết rằng một con đực hoang dã thuần chủng sẽ thay lông cổ màu đỏ và vàng và lông đuôi giữa vào cuối mùa hè cho một bộ lông màu tím tạm thời, trong khi gà nhà thì không. Như Beebe đã nhận xét, sự hiện diện của lông màu tím là dấu hiệu đáng tin cậy cho thấy một cá thể không mang gen đã được thuần hóa.

Công trình này kéo dài bốn năm. Tìm kiếm trong những ngăn kéo đầy bụi và các phòng lưu trữ ẩm mốc ở 19 bảo tàng khắp Hoa Kỳ, Canada và Châu Âu, họ thu thập được 745 mẫu vật gà rừng đỏ từ hai thế kỷ trước. Qua việc so sánh ngày tháng, mùa và địa điểm thu thập, các nhà khoa học đã nhận ra một xu hướng rõ rệt và đáng lo ngại. Lông nhật thực bắt đầu biến mất từ các mẫu vật từ những năm 1860 ở Đông Nam Á và dường như lan rộng về phía Tây theo thời gian. Đến những năm 1960, khi Bump thu thập những con chim của mình, lông nhật thực gần như biến mất hoàn toàn ở những vùng cuối cùng ở phía bắc Ấn Độ. Brisbin và Peterson tin rằng sự thay đổi này không chỉ là một biến thể tự nhiên trong quần thể hoang dã. Các thẻ mẫu vật cho thấy rằng nhiều cá thể thiếu lông nhật thực được thu thập từ những khu vực có sự hiện diện của gà nhà. Khu vực miền bắc và tây Ấn Độ, nơi Bump đã tập trung nỗ lực của mình, có thể là pháo đài cuối cùng của loài chim hoang dã.

Trong bài báo chung năm 1999, hai nhà nghiên cứu đã cảnh báo rằng “các quần thể hoang dã thuần chủng về mặt di truyền có thể đang đối mặt với nguy cơ đe dọa nghiêm trọng” và rằng các nghiên cứu về gà rừng đỏ dựa trên các quần thể hiện có trong vườn thú hoặc trong tự nhiên “có khả năng bị ảnh hưởng bởi gen thuần hóa.” Điều này đặt ra nghi vấn về tính xác thực của hàng thập kỷ nghiên cứu đã so sánh gà rừng với gà nhà nhằm làm rõ cách thức, thời điểm, địa điểm và lý do gà được thuần hóa. Một cách đáng báo động, gà rừng đỏ, loài vô cùng quan trọng về mặt kinh tế và văn hóa đối với con người, hiện dường như đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng về mặt di truyền.

Trang trại của Leggette Johnson tọa lạc trên con đường Gold Finch ở Cobbtown, nằm giữa những cánh đồng bông bằng phẳng của đông bắc Georgia, cách nhà của Brisbin ở Nam Carolina khoảng hai giờ lái xe về phía nam. Bên cạnh ngôi nhà giản dị, một khu vực rào chắn rộng lớn chứa đầy chuồng nuôi cao hơn một người đứng. Johnson đón tiếp chúng tôi ngay tại cổng dưới bầu trời mùa thu âm u. Ông ta có vẻ ngoài thận trọng, với thân hình phệ, giọng nói kéo dài, mặc quần áo thô sơ – hình ảnh điển hình của một người đàn ông tốt bụng miền Nam. Ông là một trong những người hiếm hoi ở Hoa Kỳ nuôi gà rừng thành công, đàn gà của ông bao gồm cả những hậu duệ của các con chim mà Bump đã thu thập và được Richardson chăm sóc.

“Cứ bước vào đó, chúng sẽ phát điên lên,” ông nói, chỉ tay vào chuồng gà lớn. Đó là lời tuyên bố, lời cảnh báo, và cũng là lời thách thức. Ba con gà rón rén di chuyển về phía góc xa nhất. Một trong số đó có vẻ như đang đội một chiếc khăn trắng bé xinh trên thân hình nâu xỉn nhỏ bé của nó. “Đó là chỉ nha khoa,” Johnson giải thích. Một tháng trước, một con diều hâu đã lao xuống tấn công nhưng bị lưới chắn lại. Con gà cái gà rừng đỏ—con mồi bị dự tính—đã va đập vào lồng trong cơn hoảng loạn. Đầu nó bị rách ra, và Johnson đã lấy chỉ trong tủ thuốc, khâu vết thương cho con gà khi đang ngồi trên chiếc xô nhựa trắng úp ngược.

Chúng luôn nghĩ đến cách trốn thoát. Johnson chỉ vào con gà lớn nhất, đang co ro sau lưới cách đó vài mét. Trái ngược với làn da vàng của hai con gà mái, con gà trống trông nổi bật với màu xanh, đỏ và vàng rực rỡ dưới ánh sáng âm u. Một ngày nào đó, nó đã chạy trốn khi cửa chuồng không kịp đóng lại và đã lẩn trốn suốt ba tháng, luôn ở gần các con gà mái nhưng luôn trốn tránh bị bắt. “Tôi không thể lại gần,” Johnson nói. “Nếu tôi làm vậy, nó sẽ bỏ chạy ngay lập tức.” Con gà trống không tin tưởng bất kỳ con người nào, ngoại trừ một cậu bé hai tuổi hàng xóm, người có thể đi thẳng đến gần nó mà không hề bị coi là mối đe dọa đối với tự do của nó.

Để tiếp cận khu vực nuôi gà rừng đỏ, Johnson phải đi qua một chuồng chứa nhiều loài chim hoang dã khác. Những con gà lôi đuôi dài thanh thoát và chim cút mập mạp chạy rối rít khi chúng tôi đi ngang, tỏ ra hoang mang hơn là sợ hãi. “Những con này tôi có thể cho ăn ngay từ tay,” ông nói trong khi chúng lướt qua chân chúng tôi. “Nhưng những con kia thì không,” ông nói thêm, chỉ về phía ba con gà rừng đỏ đang thu mình bên nhau. “Mọi người thường nghĩ bạn điên khi bạn nói điều này, nhưng nếu bạn làm chúng thực sự kích động và bắt được một con, chúng sẽ ngừng chống cự và bình tĩnh lại. Có lẽ chúng sẽ chết vì suy tim [tôi đoán thế].”

Quan sát kỹ hơn, thân màu nâu của hai con gà mái có ánh đỏ và được điểm xuyết bởi những chấm đen tinh tế ở cổ. Mỏ của chúng thon gọn, và chúng không có những đặc điểm nổi bật như cựa hay mào như con gà trống lòe loẹt. Tôi từ chối lời đề nghị của Johnson cho tôi vào chuồng với chúng, vì tôi không muốn gây ra cơn đau tim cho những cá thể hiếm có này. Trên trái đất này, chỉ còn lại khoảng một trăm cá thể thuộc giống này.

Johnson nhún vai, điều chỉnh chiếc mũ của mình, mở chốt cửa, và từ từ bước vào chuồng. Tiếng vỗ cánh nhanh chóng làm thay đổi áp suất không khí khiến tôi giật mình. Khi người nông dân rời khỏi chuồng, những con chim tụm lại gần nhau hơn ở góc xa, thể hiện cả cảm giác hoảng sợ lẫn sự khinh miệt cao ngạo. Khi tôi hỏi anh ấy về nguồn gốc của gà nhà, Johnson không trả lời mà chỉ dẫn tôi đến phía bên kia khu vực.

Người nông dân ở Georgia này sở hữu một trong số ít bộ sưu tập bao gồm cả bốn loài gà rừng tại Hoa Kỳ. Các con cái đều có bộ lông màu nâu trơn và không có những đặc điểm nổi bật như chiếc mào, giúp chúng tránh được sự phát hiện khi ấp trứng dưới tán rừng. Con gà trống, với bộ lông đầy màu sắc rực rỡ, lại càng nổi bật dưới ánh mắt của loài chim, bởi chúng có bốn tế bào cảm quang màu so với ba của chúng ta. Darwin đã giải thích rằng sự xa xỉ này giống như một cuộc đua vũ trang giữa các con đực để trở nên hấp dẫn hơn đối với bạn tình tiềm năng. Các nhà khoa học hiện nay cũng cho rằng chúng đang cố gắng ấn tượng lên đối thủ. Giống như mũ lông của chiến binh Hy Lạp cổ đại hoặc quần áo sặc sỡ của binh lính Zouave thế kỷ 19, trang phục có thể làm choáng ngợp và làm mất tập trung kẻ thù.

Johnson đưa chúng tôi đến một chuồng nuôi gà rừng Sri Lanka, loài đặc hữu của hòn đảo hình giọt nước nằm ngoài khơi bờ biển đông nam của Ấn Độ. Cả gà trống và gà mái cẩn thận lui về phía sau chuồng, nhưng không tỏ ra hoảng sợ. Con trống có kích thước và hình dạng tương tự như màu đỏ, nhưng nổi bật với bộ lông màu vàng cam và vài điểm nhấn màu vàng trên mồng. Kế tiếp là gà rừng màu xám ở miền nam Ấn Độ. Con trống này di chuyển nhanh nhẹn qua lại trong chuồng trên đôi chân đen, làm xào xạc bộ lông đen và màu đất nung trên nền xám, cùng với một vài điểm màu vàng trên cổ. Gà mái của loài này, tuy có bộ lông mộc mạc hơn, nhưng lại có đôi chân màu vàng.

Chuồng kế bên là nơi của gà rừng xanh, loài có nguồn gốc tự nhiên từ Java và Bali, những đảo thuộc Indonesia hiện nay, cách Sri Lanka hơn hai nghìn dặm về phía đông. Con trống này đứng yên lặng, nhìn chúng tôi với ánh mắt sắc lạnh đầy thách thức. Nó tự hào với bộ lông lộng lẫy, đặc sắc nhất trong số các loài gà rừng, với màu sắc chuyển từ đồng cũ sang xanh lục bảo. Lông ở vùng cổ có màu xanh dương và tím rực rỡ, điểm tô bằng màu vàng nổi bật và đất nung, trong khi màu của mồng dao động từ xanh nhạt đến đỏ đậm.

Johnson giải thích, khi chúng tôi đứng trước những con gà rừng xanh đứng yên lặng, rằng ba loài chị em này thường rất nhạy bén, nhưng không đến mức tự hủy hoại bản thân. Anh chưa từng phải dùng chỉ nha khoa để can thiệp cho những chú chim ở phía này của khu chăn nuôi. Các loài gà gô (grouse), chim cút, chim đa đa (partridge), và trĩ vàng (gà lôi vàng/golden pheasant) ở những chuồng khác cũng không thể sánh được với tính hoang dã và bất trị của gà rừng đỏ. Anh ấy cố gắng không vào chuồng của những con gà màu đỏ quá một lần trong ba ngày để giảm thiểu stress cho chúng.

Sự đặc biệt của gà rừng màu đỏ đã thu hút sự chú ý của Leif Andersson, một nhà sinh vật học tại Đại học Uppsala ở Thụy Điển. Ông đã đi tiên phong trong công tác giải trình tự DNA của các loài vật nuôi nhằm truy tìm nguồn gốc di truyền của chúng. Ông là một phần của nhóm đã công bố bộ gen gà vào năm 2004. Giống như Brisbin từ nhiều thập kỷ trước, Andersson nhận ra rằng mình cần một mẫu gà hoang để so sánh với loài đã được thuần hóa, nhằm xác định chính xác các điểm khác biệt. Vào năm 2011, ông đã đến thăm trang trại của Johnson để xem xét những con vật đặc biệt này và lấy mẫu máu của chúng. DNA của những con chim Richardson, hiện đang được phân tích tại phòng thí nghiệm của Andersson ở Uppsala, có thể cung cấp những manh mối quan trọng về quá khứ bí ẩn của loài gà, đặc biệt nếu chúng là những cá thể cuối cùng với bộ gen không bị pha trộn.

Trên đường trở lại Nam Carolina, Brisbin suy ngẫm về bí ẩn của quá trình thuần hóa gà. Các nhà sinh vật học vẫn còn tranh luận không ngừng về thời điểm, địa điểm, và lý do loài chim này rời rừng để về với khu vườn sau nhà. Hàng ngàn năm trước, ở đâu đó tại Nam Á, chúng đã dần hòa nhập vào xã hội loài người. Có thể những người nông dân tổ tiên của chúng ta đã chào đón loài vật này vì chúng giúp tiêu diệt cỏ dại và sâu bọ, hoặc các thợ săn đã bắt chúng trong rừng và mang về những con chim sống mà sau này đã được thuần hóa, và các thợ lượm (foragers – người cắt cỏ cho gia súc) có thể đã tìm thấy trứng chưa nở và ấp chúng một cách nhân tạo. Tuy nhiên, Brisbin cho rằng chỉ có một biến đổi gen đã vô hiệu hóa bản năng dè chừng tự nhiên của gà mà mới thực sự mở đường cho sự ra đời của loài chim hiện đại, ôn hòa hơn. “Có khoảng 5% cơ hội là khi bạn cầm một con trên tay, nó sẽ chết,” ông nói về gà rừng của Johnson. Sự thay đổi này, từ một sinh vật hoang dã thành gà nhà—có lẽ chỉ là một sự xoay vần ngẫu nhiên của bộ gen—là một sự biến đổi ngoạn mục của loài vật, và có ảnh hưởng lớn đến loài người.

Đột nhiên, một con sóc chạy ngang qua đường. Tôi lách xe, nhưng vẫn va phải con vật không may mắn đó. Brisbin bảo tôi quay xe lại. “Bạn có túi không?” ông hỏi với sự hào hứng như một đứa trẻ. “Chúng ta đừng để phí hoài.” Chúng tôi trở lại và thấy đầu của nó bị dập, nhưng phần còn lại vẫn nguyên vẹn. “Nó hoàn hảo,” ông nói, đặt túi vào ghế sau của tôi. Sau đó ông cười và thì thầm rằng việc sưu tập của ông luôn làm các lính gác ở cổng trạm năng lượng hạt nhân Savannah River cảm thấy bất an. “Các bảo vệ không muốn kiểm tra xe tôi vì sợ có rắn hoặc cá sấu trong đó.” Ông nhìn về phía ghế sau. “Nhắc tôi lấy nó ra khi chúng ta về tới nhà nhé.”

Vài tháng sau, tôi liên lạc với Richardson, người đã nghỉ hưu, để hiểu thêm về cách ông, một chủ lò mổ tự học, đã có thể nuôi dưỡng thành công những con gà khó nhằn của Bump suốt nhiều thập kỷ, dù phải đối mặt với nguy cơ bệnh tật và suy tim luôn rình rập. Nếu có ai đó biết rõ cách những con chim này đã biến thành loài vật dễ thương trong các trại gà công nghiệp ngày nay, thì chắc chắn đó là ông.

Một người phụ nữ trả lời điện thoại tại nhà ông ở Tuscaloosa. Vợ ông Richardson nói: “Tôi đã chôn cất ông ấy sáu tuần trước. Ông ấy đã tám mươi ba tuổi và chưa từng phải nhập viện.” Tôi gửi lời chia buồn, và sau đó, con gái bà ấy tiếp lời. “Bố tôi rất tỉ mỉ trong việc chăm sóc chúng,” cô ấy giải thích khi tôi hỏi về gà rừng đỏ. “Ông ấy giữ chúng cách ly, không cho phép chúng giao phối với các loài chim khác. Và nếu có người lạ đến gần—ngay cả tôi—những con gà sẽ rất hoảng loạn.” Cô ấy thêm rằng chỉ vài tuần trước khi ông mất, cô đã hỏi ông tại sao lại yêu quý những con gà khó tính và phức tạp này đến thế. “Ông ấy nói, ‘Ba thích chúng vì không thể thuần hóa được chúng.’ Ông ấy nói thêm, ‘Ba thích chúng vì chúng hoang dã.’”

Chuyên mục: